ĐĂNG NHẬP THÀNH VIÊN

BÀI VIẾT HAY

Động Phong Nha Kẻ Bàng

Hang Sơn Đoòng muôn màu











CHÚC MỪNG NĂM MỚI 2013

Đăng lúc: Chủ nhật - 06/01/2013 20:34 - Người đăng bài viết: nguoiquyhau

Nhân dịp đầu xuân mới, BBT sưu tầm một số luật thế, cách  làm thơ kính tặng quý độc giả:

Nhân dịp đầu xuân mới, BBT sưu tầm một số luật thế,cách

 làm thơ kính tặng quý độc giả:

KHÁI NIỆM THƠ & CÁCH LÀM THƠ

* Mục đích tối cao của luật thơ là giúp cho ta phương tiện sáng tạo âm điệu một cách dễ dàng. Nhưng tuân theo luật thơ một cách ngoan cố thì sẽ làm cho tác phẩm có lúc bị miễn c­ưỡng, khô cứng mất đi cái hồn của thơ.
Cho nên ngoài luật thơ thì người làm thơ phải có hứng thú có ngoại vật cảm kích và phải có tính tình, có chân tâm như thế khi làm thơ tư tưởng mới không bi lạc đi nơi khác.
Dưới đây là môt số luật thơ cơ bản:
1. ÂM
+. Nguyên âm: gốc của một chữ hay nhiều chữ
- a, ă, â, o, ô, ơ, u, ư, i,……
- oa, ua, ưa, ue, uê, uy, ai, ay, ây, oi, ôi, ơi, …
+. Phụ âm: những chữ khác nguyên âm
- b, c, d, g, h, l, m, n, p, q, r…
- ch, gh, kh, th, nh, ng, ....

2. THANH
+.
Thanh Bằng: gồm các chữ không dấu và có dấu huyền
+. Thanh Trắc: gồm các chữ có dấu sắc, hỏi, ngã và nặng

3. VẦN : là hai chữ có cùng âm và cùng thanh

4. VẬN: là cách gieo vần trong câu, có một số cách gieo vần như sau:
+. Cước vận : là cách gieo vần ở cuối câu
+. Yêu vận : là cách gieo vần ở giữa câu
+. Liên vận : là cách gieo vần ở hai câu đi liền nhau
+. Cách vận : là cách gieo vần ở hai câu cách nhau
+. Chính vận : là vần mà hai chữ hoàn toàn giống nhau về âm
+. Cưỡng vận : là vần mà hai chữ có âm tương tự nhau
+. Liên châu vận: là cách gieo vần nối liền nhau như chuỗi hạt châu

5. ĐIỆU
+. Điệu là nhịp, là tiết tấu, là âm tiết.
+. Thi điệu lấy câu làm âm tiết, câu lại có âm tiết của câu, gọi là cú điệu. Mỗi cú điệu gồm nhiều âm tiết, tức nhiều nhịp.

Dưới đây là thí dụ trong một số thể loại thơ thường gặp.


I.Thơ Bốn Chữ
Thơ bốn chữ là loại thơ có thể gọi là đơn giản nhất bởi vì luật bằng trắc chỉ được áp dụng cho chữ thứ hai và chữ thứ tư trong câu mà thôi.
Nếu chữ thứ hai là bằng thì chữ thứ tư là trắc và ngược lại nếu chữ thứ hai là trắc thì chữ thư tư là bằng.
Cách gieo vần của thể thơ này cũng được chia làm ba loại thường được gọi là cách gieo vần ba tiếng, cách gieo vần tréo và cách gieo vần ôm.
Nhưng nhiều khi câu thơ cũng không tuân theo luật đó.
Cách gieo vần
1.Vần ba tiếng (ít dùng)
Sao biếc đầy trời
Sầu trông viễn khơi
Ðêm mờ im lặng
Nhìn hạt sương rơi

2. Vần tréo                                           3. Vần ôm
Tôi làm con gái                                     Em tan trường về
Buồn như lá cây                                    Đường mưa nho nhỏ
Chút hồn thơ dại                                   Chim non giấu mỏ
Xanh xao tháng ngày                             Dưới cội hoa vàng

 II.Thơ Năm Chữ (Ngũ ngôn cổ thể trường thiên)
Thơ ngũ ngôn có độ dài ngắn khác nhau nhưng được chia thành nhiều khổ nhỏ, mỗi khổ gồm 4 dòng thơ.
Cũng giống như thơ bốn chữ: nếu chữ thứ hai trong cầu là bằng thì chữ thứ tư là trắc và ngược lại. Nhưng cũng có nhiều trường hợp không phải vậy. Cách gieo vần của thể thơ này cũng được chia làm hai loại thường được gọi là cách gieo vần ôm, và cách gieo vần tréo

 III. Thơ Sáu Chữ
Cách gieo vần của thể thơ này được chia làm hai loại: gieo vần ôm, và cách gieo vần tréo còn luật bằng trắc thì chưa thấy được áp dụng theo bất cứ quy định nào.

Thí dụ: Vần ôm                                             Thí dụ: Vần tréo
Nếu ngày mai em có tới                             Quê hương là gì hả mẹ?
Mang cho anh đám mây xanh                     Mà cô giáo dạy phải yêu
Và một cơn gió trong lành                          Quê hương là gì hả mẹ?
Làm hành trang anh đi tới                           Mà ai đi cũng nhớ nhiều

                                                                                       Huyền Kiêu

IV. Thơ Cổ Song Tứ Lục Bát

Hai câu đầu là bốn chữ, câu thứ ba là sáu chữ và câu cuối là tám chữ. Dạng thơ cổ này thì khó làm và khó xếp vần hơn, nhưng nó hay, vì được nhấn nhá (nhân đôi) theo nhịp lên xuống dứt khoát, có thể là vui có thể là buồn theo ý tác giã và nó sẻ làm cho người đọc có nhiều cảm xúc hơn. Cách làm thơ theo luật như sau:

Đoạn một                                                  Đoạn 2
x B x T(v)                                               x B x T(v*)
x T x B(v)                                               x T x B(v)
x B x T x B(v)                                         x B x T x B(v)
x B x T x B(v) T B(v*)                            x B x T x B(v) T B(v*)

    CÁCH HAI 

Đoạn 1                                                      Đoạn 2

x B x T(v)                                               x B x T(v*)
x T x B(v)                                               x T x B(v*)
x B(v) x T x B(v*)                                  x B x B(v*) x B(v)
x B x T x B(v*) T B(V*)
                         x B x T x B(v) T B(V*)

Đoạn hai cứ tiếp tục theo vần đoạn một…(V*) tiếp(v)hoặc(v*).

Nếu như bắt đầu câu thứ nhất là T B T thì câu 4 chữ thứ hai phải là B T B, nhưng câu thư' ba thứ tư đều là B T B như bình thường
Thí dụ:

Lòng như tơ RỐI                                               Tâm còn dao ĐỘNG
Mặn đắng bờ MÔI                                            Lòng còn mãi MONG
Mất nhau ta mất thiệt RỒI                               Bóng hình vẫn giữ trong LÒNG
Còn đây nỗi khổ mình TÔI hận LÒNG*        Người ơi có thấu lệ ĐONG nhạt NHÒA

Hoặc là phát triển lên: (có thể hoán vị, đổi chổ (V) câu thứ ba)

Nếu trời tối om                                                 Hay là: Đường đi tối om

Đèn như đom đóm                                           Không thấy để dòm

Ai gom, cà lúm đồng tiền                               Có người, thích gom cành đa

Quẳng vào sát mũi, anh liền xơi ngay         Cảm ơn người ấy, thiệt là có tâm

V. Song Thất Lục Bát
Thể thơ Song Thất Lục Bát này là của riêng Việt nam ta, cho nên luật thơ không gò bó theo các kiểu thơ khác .
Thơ Song Thất Lục Bát gồm mỗi đoạn có 4 câu, hai câu đầu là Song Thất, có nghĩa là mỗi câu có 7 chữ, hai câu cuối là Lục, Bát, câu thứ ba sáu chữ, câu thứ 4 tám chữ được xắp theo luật bằng trắc như sau:

x x x x B x T(v) x = tự do
x x B x T(v) x B(v) B = thanh bằng
x B x T x B(v) T = thanh trắc
x B x T x B(v) T B(v) v = vần với nhau

Đây là luật thơ trong một đoạn, để có thể nối thêm đoạn nữa thì có thể theo luật sau:
Câu thứ thư của đọan một: x B x T x B(v) T B(v)
Câu thứ nhất đoạn hai: x x x x B(v) x T(v)
Hoặc
Câu thứ thư của đọan một: x B x T x B(v) T B(v)
Câu thứ nhất đoạn hai: x x B(v) x x x T(v)

Thí dụ: (các chữ viế HOA là vần với nhau, các chữ có thêm (*) là nối liền hai đoạn)
Thủa trời đất nổi cơn gió BỤI
Khách má hồng nhiều NỖI truân CHUYÊN
Xanh kia thăm thẳm từng TRÊN
Nào ai gây dựng cho NÊN nỗi NÀY *

Trống Trường Thành lung LAY * bóng NGUYỆT
Khói Cam Tuyền mời MỊT khúc MÂY
Chín tầng gươm báu trao TAY
Nửa đêm truyền Hịch đợi NGÀY xuất CHINH*

VI. Lục Bát Liên Hoàn
Lục Bát là loại thơ một câu sáu chữ rồi đến một câu tám chữ cứ thế nối liền nhau. Bài thơ lục bát thông thường được bắt đầu bằng câu lục và kết thúc bằng câu bát. Đôi khi cũng có trường hợp kết thúc bằng câu lục để đạt tính cách lơ lửng, hiểu ngầm, hay hầu đạt tính cách đột ngột.
Lục Bát là thể thơ thông dụng nhất, vì cách làm và gieo vần tương đối đơn giản.
Lục= sáu chữ --- chữ thứ 2 Bằng, thứ 4 Trắc, thứ 6 Bằng
Bát= tám chữ --- chữ thu 2 Bằng, thứ 4 Trắc, thứ 6 Bằng, thứ 8 Bằng
Trong thơ lục bát, chữ thứ sáu của câu Lục, vần với chữ thứ sáu của câu Bát. Chữ thứ tám của câu Bát vần với chữ thứ sáu của câu Lục kế tiếp và cứ theo quy luật đó cho đến hết bài thơ. (Chữ thứ 6 và thứ 8 của câu bát nên thay đổi, hễ chữ này không dấu thì chữ kia có dấu hyền hay ngược lại ).

Ngồi chờ hết cả đêm nay x B x T x B(v)
Chỉ mong anh được xuân này bình yên x B x T x B(v) x B(v)
Cớ sao anh lại không lên x B x T x B(v)
Vô tình anh lại bỏ quên tim này x B x T x B(v) x B(v)

Tuy nhiên vẫn có những trường hợp ngoại lệ
1.Chữ thứ 2 câu lục có thể là trắc, khi ấy nhịp thơ ngắt ở giữa câu
Người nách (T) thước, kẻ tay đao
Đầu trâu mặt ngựa, ào ào như sôi
(Nguyễn Du)

2.Chữ cuối câu lục có thể vần với tiếng 4 câu bát, khi đó chữ 2 và 6 của câu bát sẽ đổi ra trắc. Câu thơ sẽ ngắt nhịp ở giữa câu bát
Đêm nằm gối gấm không êm
Gối lụa (T) không mềm bằng gối (T) tay em
Hoặc
Con cò mà đi ăn đêm
Đậu phải cành mềm lộn cổ xuống ao

VII. Đường Luật ( Thất ngôn bát cú )
Thơ Đường được bắt đầu từ bên trung hoa, thời Nhà Đường bên Trung Hoa rất xem trọng các văn hào, và cũng vì lẽ đó nên các quan trong chiều bắt buộc phải biết làm thơ, cho nên trong thời nhà Đường có rất nhiều thi sĩ nổi tiếng. Đặc biệt hơn nữa, các thi hào thời nhà Đường đã phát triển một lối làm thơ riêng biệt mà ngày nay chúng ta được biết là Thơ Đường.
Thơ đường có 2 loại : chính cách và thiên cách
*Chính cách : là những bài thơ mà tác giả tuân thủ triệt để thanh Bằng - Trắc quy định của từng câu
Thể thơ đường luât chính cách được chia làm hai loại
- Trắc thể chính cách
Bước tới đèo Ngang bóng xế tà ( T B T )
Cỏ cây chen đá, lá chen hoa ( B T B )
Lom khom dưới núi, tiều vài chú ( B T B )
Lác đác bên sông, rợ mấy nhà ( T B T )
Nhớ nước đau lòng con quốc quốc ( T B T )
Thương nhà mỏi miệng cái gia gia ( B T B )
Dừng chân đứng lại: trời non nước ( B T B )
Một mảnh tình riêng: ta với ta ( T B T )
(Bà Huyện Thanh Quan)

- Bằng thể chính cách
Quanh năm buôn bán ở nom sông ( B T B )
Nuôi đủ năm con với một chồng ( T B T )
Lặn lội thân cò khi quãng vắng ( T B T )
Eo sèo mặt nước buổi đò đông ( B T B )
Một duyên hai nợ âu đành phận ( B T B )
Năm nắng mười mưa dám quản công ( T B T )
Cha mẹ thói đời ăn ở bạc, ( T B T )
Có chồng hờ hững cũng như không ( B T B )
(Tú Xương)
*Thiên cách : là những bài thơ mà tác giả áp dụng luật " Nhất tam ngũ bất luận".
_ Nhưng từ trước đến giờ không mấy ai theo một cách triệt để. Luật " Bất Luận" luôn luôn được áp dụng, không nhiều thì ít.
Giá trị của Luật Bất Luận là làm cho ngòi bút của thi nhân được thêm phần phóng túng.

Bố Cục Của Thơ Đường Luật
Trong thơ Đường Luật, mỗi một câu đều có chức năng của nó:
Câu 1 và 2 là phá đề và thừa đề.
Câu 3 và 4 là Thực hay Trạng, dùng để giải thích hoặc đưa thêm chi tiết bổ nghĩa đề bài cho rõ ràng
Câu 5 và 6 là Luận, dùng để bàn luận cho rộng nghĩa hay cũng có thể dùng như câu 3 và 4
Câu 7 và 8 là Kết, kết luận ý của bài thơ

Những chữ cuối của câu số 1, 2, 4, 6, và 8 là những chữ mang vần trong bài thơ và thuờng thì mang thanh BẰNG và bắt buộc phải vần với nhau theo cùng một âm, những chữ này có thể mang thanh Trắc, nhưng chưa bao giờ thấy cả.
Những chữ cuối của những câu 3, 5,và 7 mang thanh Trắc và không phải vần với nhau (nếu chữ cuối của những câu 1, 2, 4, 6, và 8 là thanh Trắc thì có lẽ chữ cuối của những câu này mang thanh Bằng)
Cũng giống như Thất Ngôn Tứ Tuyệt, luật bằng trắc trong Đường Thi Chính cách cũng chỉ áp dụng cho những chữ 2, 4, và 6 trong mỗi câu mà thôi.
Điểm khó nhất trong Đường Thi là câu số ba và câu số bốn, bởi vì hai câu này được gọi là hai câu Thực và hai câu năm và câu sáu là hai câu Luận, hai cặp câu này luôn luôn đối nhau, Danh Từ đối Danh Từ, Động Từ đối Động Từ, Tính Từ đối Tính Từ, quan trọng hơn cả là hai câu 5,6 phải đối ý với hai câu 3,4 hoặc bổ sung cho ý của câu 3,4 .
Điểm cao nhất của Đường Thi là có thể Hoạ Thơ với người khác, nghĩa là sẽ dùng lại tất cả những chữ mang Vần của bài thơ muốn họa tức là bài thơ của người đầu tiên( thường được gọi là bài Xướng Thi) để diễn tả theo ý thơ của mình.

VIII. Bát Ngôn
Thơ bát ngôn ( tám chữ ) thường làm theo lối liên vận hoặc cách vận.
Liên vận: câu đầu thường không bắt vần, từ câu hai trở đi mới cặp vần. Cứ hai câu bằng rồi đến hai câu trắc hay ngược lại. Cách chia thành từng đoạn 4 câu trong thể liên vận chỉ là hình thức vì câu đầu đoạn sau vẫn cần vần với câu cuối đoạn trước.
Thôi thì gió mang niềm riêng đi cất
Để từng ngày tiếp nối những sầu vương
Cuối cuộc đời chào biệt thú đau thương
Tan muôn ngã theo mây ngàn, gió nhé!

_ Cách vận: câu lẻ vần với câu lẻ và câu chẳn vần với câu chẳn. Như vậy một đoạn 4 câu cần hai vần, nhưng ngược lại các đoạn không cần nối vần với nhaụ.

Em không đến, làm sao ta biết được
Đời sống này, hạnh phúc có hay không?
Mưa đã đến, cọng cỏ xanh mọng nước
Riêng trời ta, mây xám vẫn mênh mông

Một biến dạng của thơ tám chữ cách vận là trong 1 đoạn 4 câu chỉ cần câu 4 vần với câu 2; còn hai câu lẻ mang vần trắc là đủ.

Vì bát ngôn không có quá gò bó, từ ngữ bạn dùng sẽ làm bài thơ trở nên hay hơn. chỉ cần uốn nắn, uyển chuyển dùng từ sẽ tạo ra một bài thơ thật hấp dẫn.
Thí dụ :
Mùa xuân về đang đón những bước em
Chút hờ hững vẫn đong đầy trên lá
Con bướm vàng cánh vờn bay hối hả
Bóng lung linh trong những giọt sương mềm

Trong một câu, nên có sự cân bằng giữa số lượng các vần bằng và vần trắc ví dụ Bằng /Trắc = 3/5 hay ngược lại . Vần bằng trắc cũng nên xen kẽ đều đặn để câu thơ uyển chuyển nhịp nhàng . Gieo vần thì có nhiều cách.
1. Gieo vần ôm :
- Chữ cuối câu 1 vần với chữ cuối câu 4, cuối câu 2 vần với cuối câu 3 .
Thí dụ :
Ngươi ám ảnh hương thơm bằng ánh sáng
Ru màu êm, mà gọi thức lòng ngây
Trăng, nguồn sương làm ướt cả gió hây
Trăng, võng rượu khiến đêm mờ chếnh choáng
2. Gieo vần chéo :
Chữ cuối câu 1 vần với cuối câu 3, và/hoặc chữ cuối câu 2 vần với cuối câu 4.
Thí dụ:
Tạo hóa hỡi ! Hãy trả tôi về Chiêm Quốc !
Hãy đem tôi xa lánh cõi trần gian!
Muôn cảnh đời chỉ làm tôi chướng mắt !
Muôn vui tươi nhắc mãi vẻ điêu tàn

Chú ý : bằng vần với bằng, trắc vần với trắc . Bằng không bao giờ vần với trắc . Ví dụ :lồng không vần với lộng
Nếu làm thơ nhiều đoạn, chữ cuối câu 4 của đoạn trước luôn vần với chữ cuối câu 1 của đoạn sau
Thí dụ :
Làm thi sĩ , nghĩa là ru với gió
Mơ theo trăng, và vơ vẩn cùng mây,
Để linh hồn ràng buộc bởi muôn dây,
Hay chia sẻ bởi trăm tình yêu mến

Đây là quán tha hồ muôn khách đến
Đây là bình thu hợp trí muôn hương;
Đây là vườn chim nhả hạt mười phương,
Hoa mật ngọt chen giao cùng trái độc

IX. HaiKu  
Hai-Ku có nguồn gốc từ nhật, qua các thời đại dần dần len lỏi vào nền văn hóa Viêt Nam. Hiện nay loại thơ nay cũng được các nước tây phương như, Anh, Pháp, Mỹ tiếp nhận.
Về hình thức thì Hai-Ku gồm ba câu và 17 âm. Ba câu được chia ra thành 5,7,5 câu năm, câu bảy, và câu năm. Không biết người Nhật viết làm sao ( no speak Japanese ) nhưng khi làm thử trong tiếng việt nguyenvq rút ra rằng có thể để cho chữ cuối của mỗi câu vần với nhau sẽ làm bài Hai-ku của bạn đọc xuôi tai hơn.
Thí dụ:
Sinh ra từ bụi cát
Đến hôm nay ta còn phiêu bạt
Bao giờ hết hoang mang

Trên đây là một bài Hai-Ku hoàn chỉnh, Hai-ku không cần dài vì chỉ là một quan niệm hoặc một ý tưởng nhỏ viết nên mà thôi. Tuy nhiên Hai-Ku được xếp vào thể thơ có ý nghĩa sâu sắc trong nền thơ văn Nhật Bản. Theo người Nhật, Hai-Ku dùng để diễn tả bốn mùa trong năm, không nhất thiết phải dùng từ ngữ về các mùa, nhưng có thể dùng hình ảnh, biểu tượng như: Tuyết cho mùa đông, hoa cho mùa xuân,,, vân vân.
Thí dụ:
Hoa tuyết còn rơi đều
Trắng ngần một cõi hồn rong rêu
Và đêm nay ta nhớ

Một số Ðiều Kỵ Trong Thơ
*1-Thất luật
Những từ đáng Bằng mà làm ra Trắc hoặc đáng Trắc mà làm ra Bằng
*2-Thất niêm
Câu trên đang theo luật Bằng mà câu dưới sang luật Trắc hoặc câu trên đang theo luật Trắc mà câu dưới làm sang luật Bằng
*3-Lạc vận
Ðang theo vần này mà gieo sang vần khác, như vần trên là trời mà vần dưới là mây thì gọi là lạc vận
*4-Xuất vận
Người ta đã hạn định cho những cho những vần gì, mà mình dùng vần khác,thì gọi là xuất vận.
*5-Trùng vận
Câu trên đã dùng một vần, câu dưới lại dùng như thế nữa thì gọi là trùng vận.
*6-Cưỡng áp
Các vần gieo ép uổng, không được hợp lắm
*7-Khổ độc
Trong một bài thất ngôn, chữ thứ ba các câu chẵn, trong một bài ngũ ngôn, chữ thứ nhất các câu chẵn đáng là từ bằng mà làm ra từ trắc
*8-Phong yêu hạc tất
Trong thơ thất ngôn, từ thứ tư và tứ thứ bảy, trong thơ ngũ ngôn, từ thứ hai và từ thứ năm nếu trùng một âm.
*9-Ðối không chỉnh
Khi những từ trong bài thơ phải đối nhau mà từ nặng từ nhẹ không được cân.
*10-Trùng từ hay trùng ý
Từ hay ý đã dùng rồi mà lại còn dùng nữa.

Một Số Thể Loại Thơ Đặc Biệt

Tài liệu tham khảo
*Luật Thơ Mới, Nguyễn Ðình Tuyến
*Tiếng Việt Tuyệt Vời, Ðỗ Quang Vinh
* Luật Thơ, Phạm Doanh (datviet.com)
* nonsong.org
* Thi Pháp Thơ Đường ( Quách Tấn )
*Việt Nam Văn Học Sử Yếu , Dương Quảng Hàm , nxb Bộ Quốc Gia Giáo Dục, 1962
* Việt Nam Văn Học Sử Giản Ước Tân Biên , Phạm Thế Ngũ ,nxb , Quốc Học Tùng Thư,1965
*Nam Thi Hợp Tuyển, Ôn Như Nguyễn Văn Ngọc, nxb Bốn Phương, 1952
*Tìm Hiểu Các Thể Thơ, Lạc Nam ,nxb Văn Học-Hà NộI , 1996
*Khảo Luận Về Thơ , Lam Giang, nxb Ðồng Nai, 1994
*Thơ Văn Nguyễn Khuyến, Xuân Diệu giới thiệu , nxb Văn Học-Hà Nội ,1971
*Thơ Văn Trào Phúng Việt Nam Từ Thế Kỷ 13 Ðến 1945, Vũ Ngọc Khánh Biên soạn, nxb Văn Học-Hà Nội , 1974
*Thơ Văn Yêu Nước (1858-1900) , Chu Thiên ,nxb Văn Học - Hà Nội , 1970
*Chơi chữ , Lãng Nhân, nxb nam Chi Tùng Thư, 1961
*Việt Nam Gãm Hoa ,Hương-Giang Thái Văn Kiểm, nxb Làng Văn-Canada,1997
*Người Ham Chơi, Hoàng Phủ Ngọc Tường , nxb Thuận Hóa ,1998./.

VŨNG TÀU: 24/12/2012

 NGUỒN    SƯU TẦM


 

GỞI VỀ QUÊ NGOẠI

     Tôi đến với trang web:langquyhau.com.vn tuy bằng một sự tình cờ. Dẫu vậy, ba chữ tên làng  ấy đã gợi lên trong tôi một nỗi niềm, mà trong đó như phảng phất một nỗi buồn man mác chen lẫn với sự nhung nhớ mong lung. Và cũng chính nỗi niềm tâm tư ấy đã làm cho tôi bất chợt nhớ đến bài hát “ Về quê Ngoại” của Hàn Châu, một ca khúc mang đậm âm hưởng dân ca Nam bộ, rất thiết tha và gần gũi. Làng Quy Hậu đối với tôi là cả một vùng kỹ niệm. Trong ký ức tôi, đây là một vùng quê thanh bình, đầy thân thương và xiết bao trìu mến. Tuy không sống nhiều ở đây, nhưng Làng Quy Hậu vẫn in đậm nét trong tiềm thức của tôi ngay từ những ngày còn thơ ấu. Tôi yêu vùng đất này, vì nơi đây chính là quê Ngoại của tôi. Tôi vẫn nhớ và vẫn thích những ngày hè xa xưa khi được về thăm Ông Bà ngoại. Được sống cùng với những người nông dân cần cù, chất phác mà rất đỗi đôn hậu hiền lành. Về Ngoại, tôi luôn được sự cưng chiều của các chị gái, người đẹp mà lại hiền, làm nghề nón cũng rất giỏi giang và thành thạo. Rồi được vui đùa nơi gốc đa bến nước và thú vị hơn tất cả là được tắm mình trong cảnh làng xóm dưới những đêm trăng, ôi! cái cảm giác thanh bình ấy của một thời thơ ấu, tôi vẫn mang theo mãi tới tận bây giờ.

      Mặc dù phải đi xa do yêu cầu công tác và cuộc sống mưu sinh. Nhưng mỗi lần có dịp về Lệ Thủy, tôi đều nghé thăm quê ngoại, được chứng kiến sự đổi thay của xóm làng, qua từng năm tháng mà tự hào và xúc động. Từ sự đổi thay mạnh mẽ đó, đã cho tôi một cảm nhận mới và rồi tự nhiên câu hát ru quen thuộc “Chiều chiều ra đứng ngõ sau, nhìn về quê ngoại ruột đau chín chiều” mà Bà Ngoại đã từng ru tôi ngủ, vào những trưa hè ngày xưa ấy, nó đả mang tôi trở về với dĩ vảng.

      Mỗi khi về thăm quê ngoại, tôi có thói quen là sau khi dạo một vòng quanh khu vườn, mà ngày xưa tôi từng thuộc lòng từng vị trí, của gốc xoài, gốc ổi do Ngoại tôi trồng. Sau đó tôi mới trở về vấn an Bà Dì là em ruột mẹ tôi, nghe Dì kể lại những kỷ niệm xa xưa mà cứ tưởng như chỉ mới hôm nào. Có lần  tôi nghe Dì kể nhiều chuyện xóm làng xưa và nay, rồi đột nhiên Dì hỏi cảm nhận của tôi về “cái cổng làng mà có người con cháu trong làng đi xa đóng góp, nghe nói họ thành đạt lắm về góp tiền xây dựng cổng mới”. Bởi Dì tôi cả một đời sống thanh bạch, giản dị, một nắng hai sương vì chồng vì con,  Dì tôi sống rộng rãi nhưng lại rất thực tế, ghét phô trương. Hiểu tính Dì là như vậy, nên tôi không thể biết trong câu Dì hỏi…có phải muốn giới thiệu về công trình mà nhiều người địa phương coi đây là niềm tự hào! Hay còn muốn thể hiện một chính kiến nào khác của chính Dì. Nghĩ như vậy nên tôi khá dè dặt. Để Dì không đoán ra: rằng tôi đã rất sửng sốt khi nhìn thấy chiếc cổng to lớn, vắt qua con đường huyện nho nhỏ, một con đường đất vừa mới được cải hóa bằng bê tông.Tôi cũng sững sờ khi thấy dưới chân cổng mới xây, dân làng đang cố bồi đất, đắp cho mặt bằng ngang với khẩu độ chiếc cổng uy nghi ấy. Do phải đắp thêm mà vùng đất nơi chân cổng phình to, có thể dùng làm nơi quay đầu xe khá tiện dụng. Tôi nói với Dì “Con thấy cổng mới làng ta to quá, đẹp quá, có thể nói: to đẹp và hoành tráng hơn bất cứ cổng làng nào trong toàn huyện Lệ Thủy này”. Tôi thấy Dì nhìn tôi hơi khác! Đến đây tôi mới hiểu được ý của Dì, nên đã nói đúng với cảm nhận của mình, cảm nhận rất thật của một người con về quê ngoại. Cảm nhận đó là “ Cổng làng Quy Hậu tuy có đẹp, có hoành tráng, nhưng nó được dựng lên vào cái lúc mà: Trường học chưa đủ tiện nghi, đồ dùng học tập còn quá thiếu cho các em học sinh, trạm xá xã chưa đủ thiết bị để cấp cứu mỗi khi cần. Trường mầm non trong làng chưa phải là nơi an tâm cho các bà mẹ gởi gắm con trẻ, lương cô giáo dạy trẻ còn quá thấp. Dân làng nhiều hộ còn phải dùng nước sông thay cho nước sạch. Thì việc đầu tư cho một cái cổng làng hơn nữa tỷ bạc, làm cho cổng làng quá cách biệt so với cơ sở hạ tầng còn quá đơn sơ. Rồi đây chắc phải xin huyện mở rộng con đường liên xã về làng Quy Hậu, để có đoạn đi qua làng vừa với khẩu độ của cổng chào. Và như vậy phải chăng người có ý tưởng xây chiếc cổng chào này, hình như đã có ý định trước rồi chăng ? Nghe nói đến đây Dì tôi khẽ gật đầu cười mỉm, tôi không hiểu cái gật đầu của Dì tôi. Có phải là cái gật đầu chung của nhiều bà con dân làng hay không ? nhưng cũng đủ để cho tôi mạnh dạn nói lên nhiều suy nghĩ khác vê làng quê ngoại.

      Khác với những lần về quê trên thực tế, lần này tôi về thăm quê trên những bài viết về quê ngoại. Bỡi vậy tôi hăm hở lần theo chiều dài của trang Web Langquyhau, đọc được rất nhiều bài viết. Cảm nhận đầu tiên là biết ơn những người làm nên trang web này, để cho tôi và mọi người được hiểu thêm về quê ngoại. Do vậy những bài viết về quê ngoại cho dù bất cứ viết lên từ khía cạnh nào, đều gợi cho tôi cảm giác nhớ nhung đến nao lòng. Thật tình mà nói dù trang Web đang trên đường phải tự hoàn thiện mình, nhưng dù sao nó cũng đã để lại trong tôi ( một phụ nữ luôn hướng về quê ngoại) nhiều thiện cảm. Do vậy với bài viết này, những cảm nhận thật lòng của tôi, có làm chạnh lòng vài ba người bạn cùng lứa và một số người khác… Nhưng dù sao tôi cũng muốn chuyển tải đến cộng đồng của những người con xa quê, chính kiến của chính mình. Và cũng mong muốn cảm ơn những người đã tâm huyết làm nên trang Web này; Rất mong bạn bè gần xa thông cảm.

      Và một điều tôi muốn nói trong bài viết này là: Để cho trang Web langquyhau thực sự đi vào lòng người một cách giản dị và chân tình, nhanh chóng trở thành địa chỉ quen thân cho những người con Làng Quy Hậu có chỗ liên lạc. Và hơn thế nữa là nơi để cho những người con đi xa chia sẽ, bày tỏ tấm lòng, cùng tâm sự với quê hương xứ sở. Nên chăng thay biểu tượng của trang Web là chiếc cổng làng đồ sộ bằng một biểu tượng khác, giản dị và gần gũi hơn như chính tên làng mà ông cha ta từ xưa đã lựa chọn. Cũng có thể biểu tượng là hình ảnh quen thuộc quê nhà…Để gợi nhớ cho bất cứ ai về nơi bắt đầu, lớn lên, đi xa và thành đạt./.

Tp.HCM 04/01/2013

      Người viết

      Thu Giang

Tác giả bài viết: Ban biên tập
Từ khóa:

nhân dịp, sưu tầm

Đánh giá bài viết
Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá
Click để đánh giá bài viết

Những tin mới hơn

Những tin cũ hơn

 
TÌM KIẾM

CÁC BÀI VIẾT TIÊU ĐIỂM

CÁC BÀI VIẾT MỚI NHẤT

Thống kê

  • Đang truy cập: 11
  • Hôm nay: 1071
  • Tháng hiện tại: 19613
  • Tổng lượt truy cập: 5332734

 Bấm vào đây để xem
LỊCH VẠN NIÊN

 

Thăm dò ý kiến

Bạn cảm thấy trang web của chúng tôi như thế nào?

Rất Tốt! Cung cấp thông tin hữu ích.

Tốt

Tạm được!

Chưa ổn!